THẢO DƯỢC TẤN PHÁT UY TÍN TẠO NIÊM TIN

Cây Thuốc Chỉ xác Tại HCM?

Website Thảo Dược Tấn Phát Hcm có bài: Cây Thuốc Chỉ xác Tại HCM? :

Tên khác

Tên Việt Nam:  Trái già của quả  Trấp, Đường quất.

Tên khác Chỉ xác  (Chỉ là tên cây, xác là vỏ. Vì quả chín ruột quắt chỉ còn vỏ với xơ nên gọi là Chỉ Xác.) , Nô lệ, Thương xác, Đổng đình nô lệ  (Hòa Hán dược khảo).

Poet HANSY: 

Tên khoa học:   Fructus citri Aurantii

Họ khoa học:  Thuộc họ Cam (Rutaceae).

Cây Chỉ xác

( Mô tả, hình ảnh cây Chỉ xác, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý  ….)

 Mô tả:

Cây gỗ nhỏ, cao 2 – 10m. Thân nhẵn, ko gai hoặc có gai ngắn, thẳng. Lá mọc lên so le, hình trái xoan, phiến dai, gốc tròn, đầu tù cso khi lõm, hơi có răng ở gần đầu lá; cuống có cánh rộng, có lúc to bằng phiến lá, hai mặt nhẵn, mặt trên bóng. Cụm hoa là một chùm mọc ở kẽ lá, gồm 6 – 8 hoa nhỏm, màu trắng hoặc màu vàng nhạt, có 5 lá dài, 5 cánh hoa, 20 nhị. Quả hình cầu hoặc hình trứng, có núm, vỏ ngoài sần sùi, khi chín màu vàng nhạt, ruột màu vàng lục, rất chua. Mùa hoa: tháng 2 – 4, mùa quả: tháng 5 – 8.

Địa lý: Có nhiều ở phía Bắc Việt Nam.

Phần dùng làm thuốc: Quả chín.

Thu hái, sơ chế:

Chọn vào tháng 9-10, hái những trái gần chín, phơi khô lúc trời thoáng đãng hoặc hái quả xanh có đường kính 3-5cm bổ ngang làm đôi phơi khô.

Bào chế:

Đem thấm nước cho mềm, bỏ xác múi và hạt ở trong đi rồi xắt mỏng phơi khô trộn sao với nếp hoặc cám cho tới khi gạo vàng hoặc cám gần cháy đen rồi bỏ đi, lấy Chỉ xác, Chỉ xác để lâu càng tốt.

Bảo quản:

Để nơi khô ráo, tránh ẩm.

Thành phần hóa học:

Hesperidin, Neohesperidin, Naringin   (R F Albach và cộng sự, Phytochemistry 1969, 8 (1) : 127).

Synephrine, N-Methyltyramine  (Hà Triều Thanh, Trung Dược Chí 1981, 12 (8) : 345).

Vỏ quả chứa chất dầu 0,469%, trong đó có (-Pinene, Limonene, Camphene, (-Terpinene, p-Cymene, Caryophyllene (Nobile Luciano và cộng sự, C A 1969, 70 : 31620b).

Tác dụng dược lý:

Chỉ thực, chỉ xác: vị thuốc kích thích tiêu hóa

. Chỉ thực và Chỉ xác đều có công năng  cường tim, tăng huyết áp do thành phần chủ đạo là Neohesperidin nhưng Mang Trả làm tăng nhịp tim. Thuốc có tác dụng  co mạch, tăng lực cản của tuần hoàn ngoại vi, tăng co bóp của cơ tim, tăng lượng cGMP của cơ tim và huyết tương nơi chuột nhắt. Chỉ thực còn có công dụng  tăng lưu lượng máu của động mạch vành, não và Thận, nhưng máu của động mạch đùi lại giảm (Trung Dược Học).

Nước sắc Chỉ thực và Chỉ xác đều có tác dụng  ức chế cơ trơn ruột xa lánh của chuột nhắt, chuột lang và thỏ, nhưng đối với chó đã được gây rò dạ dày và ruột thì thuốc lại có tác dụng  hưng phấn làm cho nhịp co bóp của ruột và dạ dày tăng. Đó cũng chính là cơ sở dược lý của thuốc dùng để điều Chữa chứng bao tử sa xuống, dạ dày giãn, lòi dom, sa trực trường… Kết quả thực nghiệm cho biết Chỉ thực và Chỉ xác vừa có tác dụng  làm giảm trương lực cơ trơn của ruột và chống co thắt, vừa có thể hưng phấn làm tăng nhu động ruột, do trạng thái chức năng cơ thể, nồng độ thuốc và súc vật thực nghiệm khác nhau mà có tác dụng  cả hai mặt ngược nhau, như vậy sử dụng thuốc để điều tiết sự rối loạn chức năng đường tiêu hóa ở trạng thái bệnh án là tốt (Trung Dược Học).

Nước sắc Chỉ thực và Chỉ xác có tác dụng  hưng phấn rõ ràng đối với tử cung thỏ có thai hoặc chưa có thai, xa lánh hoặc không, nhưng đối với tử cung chuột nhắt cô lập lại có công năng ức chế.tác dụng  hưng phấn tử cung của thuốc phù hợp với kết quả điều Đẩy Lùi liệu chứng tử cung sa có kết quả trên lâm sàng (Trung Dược Học).

Vị thuốc Chỉ xác

( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng …. )

Tính vị:

Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh).

Vị chua, hơi hàn, Đem Trả độc (Biệt Lục).

Vị đắng, cay (Dược Tính Bản Thảo).

Vị đắng, tính hơi hàn (Trung Dược Học).

Vị đắng, tính hơi lạnh. (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Quy kinh:

Vào kinh Vị, Tỳ (Bản Thảo Kinh Sơ).

Vào kinh Tâm Tỳ (Lôi Công Bào Chế Dược tính Giải).

Vào kinh Can, Tỳ (Bản Thảo Tái Tân).

Vào kinh Tỳ, Vị (Trung Dược Học).

Vào  kinh Tỳ, Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Tác dụng:

Chỉ xác giúp tiêu hoá, chữa ngực sườn đau tức, bụng chướng khó tiêu - Bán  các loại thảo dược quý

Tả đờm, hoạt khiếu, tả khí (Bản Thảo Diễn Nghĩa).

Tả Vị thực, khai đạo kiên kết, tiêu đờm tích, khứ đình thủy, thông tiện bí, phá kết hung (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).

Hành khí trệ, tan đờm, dẫn khí xuống qua đường đại tiện (Trung Dược Học).

Phá khí, tiêu tính, cùng theo đó có công năng  tả đờm , trừ bỉ tích, hành khí (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Phá trệ khí, thư trường vị, dùng làm thuốc khử đờm , táo thấp, tiêu thực.

Chủ trị:

Tan những chất lưu kết trong bụng, đờm  trệ ở ngực, tiêu đầy trướng, yên dạ dày, phong nhập vào đại trường.

Liều dùng

Dùng 4 – 12g.

Kiêng kỵ:

Tỳ, Vị hư hàn mà ko có thấp tích. Đàn bà có thai, gầy yếu chớ dùng.

Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Chỉ xác

Trị trẻ em lỵ lâu ngày, tiêu ra cơm nước Từ chối đều:

Chỉ xác, tán bột, mỗi đợt uống 4 – 8g (Quảng Lợi Phương).

Trị răng đau nhức:

Chỉ xác ngâm rượu súc miệng (Thánh Huệ Phương).

Cầm lỵ, thuận khí:

Chỉ xác sao 96g, Cam thảo 24g, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước sôi (Anh  Đ Bách Vấn Phương).

Trị trẻ con đi tiêu khó:

Nướng Chỉ xác, bỏ múi, Cam thảo mỗi thứ 4g, sắc uống (Toàn Ấu Tâm Giám Phương).

Trị  lở đau sưng:

Chỉ xác nướng nóng, chườm vào đó 7 trái (Bí Hiệu Phương).

Trị  lở đau sưng:

Dùng bột Chỉ xác, bỏ vào trong bình đun cho sôi thật lâu trước xông sau rửa (Bản Sự Phương).

Trị nấc cụt do thương hàn:

Chỉ xác 20g, Mộc hương 4g tán bột, mỗi lần uống 4g, với nước sôi, chưa bớt thì uống tiếp (Bản Sự phương).

Trị đau bụng khi có thai:

Chỉ xác 120g, sao với cám. Hoàng cầm 40g. tán bột. Mỗi lần uống 20g với 1 chén rưỡi nước, nếu có phù bụng căng thêm Bạch truật 40g (Hoạt Pháp Cơ Yếu Phương).

Tri ruột xệ xuống sau khi đẻ:

Chỉ xác, sắc lấy nước ngâm, đợi ít lâu thì rút vào (Tụ Trân Phương).

Trị trẻ con nôn mửa, động kinh, nghẹn đờm , co giật:

Chỉ xác bỏ múi sao với cám, Đạm đậu khấu, 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 1/2 muỗng cà phê, nặng thì 1 muỗng. Nếu cấp kinh phong dùng Bạc hà giã vắt lấy nước uống với thuốc. Nếu mạn kinh phong dùng Kinh giới nấu uống với 3-5 giọt rượu, ngày 3 lần (Bất Kinh Hoàn – Tiểu Nhi Phương).

Trị trẻ con bị chứng nhuyễn tiết (mụn nhọt mềm có nước):

Chỉ xác 1 trái lớn (không lấy loại trắng), mài cho bằng miệng rồi lấy hồ miến bôi quanh miệng, úp lên trên đầu miệng mụn thì cũng có thể tự ra hết máu mủ và không có sẹo (Thế Y Đắc Hiệu Phương).

Lợi khí sáng mắt:

Chỉ xác 40g, sao, tán bột, uống với nước (Tuyên Minh Phương)

Trị thương hàn âm chứng, do uống thuốc lầm hạ quá sớm sinh đầy tức ngực nhưng không đau, đè vào thấy mềm:

Chỉ xác, Binh lang 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi đợt uống 12g với nước sắc Hoàng liên (Tuyên Minh Phương).

Trị tiêu ra máu:

Chỉ xác 240g sao với cám, Hoàng kỳ 240g, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước cơm, hoặc trộn với hồ làm viên uống (Kinh Nghiệm Phương).

Trị bụng đầy, người lớn cũng như trẻ nhỏ, khí huyết ngưng trệ:

“Tứ Diệu Hoàn” gồm Chỉ xác đầy mà lưng còn xanh, bỏ múi đi, lấy 160g chia làm 4 phần, 40g sao với Thương truật, 40gsao với La bặc tử, 40g sao với Hồi hương, 40g sao với Can tất, xong bỏ các vị ấy đi, lấy Chỉ xác, tán bột dùng. Lấy 4 vị trước sắc lấy nước trộn bột gạo làm thuốc viên to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 50 viên với nước cơm, sau khi ăn (Giản Dị Phương).

Tiêu tích thuận khí, Hỗ trợ liệu ngũ tích lục tụ, dùng cho cả già lẫn trẻ:

Chỉ xác 3 cân bỏ múi, mỗi trái bỏ vào 1 hạt Ba đậu nhân, rồi úp vào cho kín, nấu lửa thật nhỏ 1 ngày, cạn nước đổ thêm, khi thêm phải đổ nước nóng vào, đợi cho nước cạn, bỏ Ba đậu đi, lấy Chỉ xác phơi nắng, sao, tán bột, dùng bột trộn giấm làm viên to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 30-40 viên (Thiệu Chân Nhân Kinh Nghiệm Phương).

Trị vùng xương sườn đau nhức vì sợ quá mà thương tổn tới khí:

Chỉ xác (sao) 40g, Đào chi (sống) 20g, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Gừng và Táo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Trị uất khí ở thượng tiêu làm đầy sinh vì hàn:

Chỉ xác, Tô tử, Quất bì, Cát cánh, Mộc hương, Bạch đậu khấu, Hương phụ (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị tiêu ra máu giai đoạn đầu:

Chỉ xác, Hoàng liên, Hòe hoa, Can cát, chữa phong, Kinh giới, Thược dược, Hoàng cầm, Đương quy, Sinh địa, Địa dư, Trắc bá diệp (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị ngứa do phong chẩn:

Chỉ xác, Kinh giới, Khổ sâm, Phòng Lại phong, Thương nhĩ  thảo, Bại bồ, nấu nước tắm gội (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị lỵ, mót rặn:

Chỉ xác, Binh lang, Thược dược, Hoàng liên, Thăng ma, Cát căn, Cam thảo, Hồng khúc, Hoạt thạch (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị khí hư, đại tiện khó:

Chỉ xác, Nhân sâm, Mạch môn đông (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị đau ở hông sườn phải

 Chỉ xác, Nhục quế (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Tham khảo:

Tác dụng chỉ sác trong các tài liệu khác

. Muốn khai khí giữa ngực thì dùng Chỉ xác, khai khí ở dưới bụng thì dùng Chỉ thực. Phòng Chống khí trệ thì dùng Chỉ xác, Đẩy Lùi khí kết thì dùng Chỉ thực. Duy cổ ngữ có nói Chỉ xác điều trịĐiều Trị liệu khí, Chỉ thực điều trị huyết, nhưng xét ra khí hành thì huyết thông, 2 vị đều là thuốc lợi khí chứ Từ chối phải là thuốc thông huyết. Cho nên dùng Chỉ thực với Bạch truật thì điều hòa được Tỳ mà dùng với Đại hoàng thì thúc đẩy được khí. Nếu người khí hư trướng mà dùng Chỉ thực thì Từ chối khác gì ôm củi mà Phòng Lại cháy (Bản Thảo Cầu Chân).

. Chỉ xác kiện tỳ, khai vị, điều hòa ngũ tạng, cầm mửa tiêu đờm, chứng ăn vào mửa ra, hoắc loạn, tả lỵ, tan hòn khối, tiêu nước đọng trong phổi và đại tiểu trường (Chư Gia Bản Thảo).

. Chỉ xác với Chỉ thực khí vị giống nhau, nhưng Chỉ thực nhỏ tính mạnh chạy khỏe như một người tướng trẻ nhiệt huyết xung phong không lùi bước nào, còn Chỉ xác to tính hoãn, đi chậm vào được ở ngực, cách, phổi, vị, đại trường, Phòng Lại chứng tê ngứa (Vì Phế chủ bì mao, tỳ chủ cơ nhục, phong hàn, thấp vào 2 kinh ấy thì sinh ngứa hay tê) phải có Chỉ xác mới Ngăn Ngừa được những chứng ấy (Bản Thảo Đơn Phương).

. Chỉ xác và Chỉ thực xưa kia ko phân biệt. Bắt đầu từ Đông viên chia ra Chỉ xác Ngăn Lại ở trên cao, Chỉ thực điều Ngăn Ngừa phần dưới, Vương Hải Tàng thì chia ra Chỉ xác chủ phần khí, khí đã lợi thì đờm phải tiêu, tích phải hóa, trong thân thể con người, từ cửa miệng đến Phách môn, tam tiêu đều thông một khí mà thôi, việc gì phải chia ra trên với dưới, khí với huyết. Nhưng Chỉ thực tính cấp, Chỉ xác tính hoàn là đúng thôi, nếu có người trung khí mạnh chắc, ngẫu nhiên vì ăn quá nhiều đồ khó tiêu, mượn nó giúp cho tỳ để khắc hóa thì được, nếu trung khí ko đầy đủ, tỳ hư Mang Trả vận hóa được thì càng tiêu lại càng hư, cũng như khí yếu bỉ đầy mà dùng làm thuốc khắc phạt thì khí vô hình bị thương, Từ chối những càng ủng trệ hơn mà lại biến sinh ra chứng khác. Còn như bài Sấu thai ẩm dùng Chỉ xác làm quân là vì Ngăn Lại cho công chúa Hồ Dương khó sinh mà nổi tiếng là vì công chúa được phụng dưỡng quá đầy đủ cho nên khó sinh, vả lại thời tiết bản địa thuộc thực thì họa chăng có thích hợp, nếu không thì gây hại đến chân nguyên, thai ko có lực lại khiến cho khó sinh. Huống chi tỳ và vị là bố mẹ để hóa sinh, cũng như tường vách trong thân thể con người có thể chịu được sự đẩy ngã nhiều lần đâu! Người thượng cổ phần nhiều bị thương vì lục dâm họa chăng chịu nổi được, con người bây giờ bẩm thụ đã thiếu thốn, thất tình lại càng làm hại, chứng bị trướng đều thuộc hư, thường thường như thế cả, dùng làm thuốc công phạt thì lại càng thêm hại, phải nên cẩn Thận (Dược Phẩm Vậng Yếu).

Phân biệt:

Chỉ thực và Chỉ xác đều là quả phơi khô của hơn 10 cây của chi Citrus và Poncirus học Cam (Rutaceae) nhưng thu hái ở hai thời kỳ khác nhau. Chưa xác định được tên chính xác. Tận Trung Quốc còn dùng Chỉ thực hoặc Chỉ xác với nhiều cây khác nhau như cây Câu kết, Chỉ (Poncirus trifolia Raf), cây Hương viên (Citrus wilsonii Tanaka), cây Toàn đăng hay Câu đầu đăng, Bì đầu đăng (Citrus aurantium L) cây Đại đại hoa (Citrus aurantium L Var Amara Engl). Có nơi còn dùng quả Bưởi non (Citrus grandis Osbeck) bổ đôi, phơi khô để làm Chỉ thực và Chỉ xác.

Có nơi dùng quả bưởi non (Citrus grandis ocbeck) bổ đôi, phơi khô làm Chỉ xác.

Chỉ xác gồm các  quả bổ đôi, đường kính 2-3cm (hoặc bổ tư). Vỏ ngoài có màu nâu vàng, có vết tích của cuống quả hoặc vết tích của vòi nhụy. Mặt cắt ngang có một vòng vỏ quả ngoài mỏng màu nâu, sắt vỏ có một vòng túi tinh dầu lỗ chỗ, lớp cùi trắng ngà, dày khoảng tử 3-4mm quăn ra phía ngoài, giữa là ruột màu nâu nhạt, có các múi hình tía nan hoa bánh xe, khô xốp có lỏi cứng. Chất cứng chắc, mùi thơm nhạt, vị đắng cay. Ruột hơi chua chát (so sánh với: Chỉ thực).

Chỉ xác và Chỉ thực giống nhau, nhưng sức mạnh của Chỉ xác yếu hơn.

Bài viết Cây Thuốc Chỉ xác Tại HCM? được tổng hợp và biên tập bởi: Thảo Dược Tấn Phát Hcm. Mọi ý kiến đóng góp và phản hồi vui lòng gửi Liên Hệ cho Tấn Phát Co.,ltd. Xin cảm ơn.